Khái niệm IQ là gì? Trong tiếng anh IQ là được viết tắt của từ "lntelligent Quotient", từ này được hiểu đơn giản là chỉ số thông minh của loài người và nó được sử dụng trong ngành tâm lý học nhằm xác định giá trị thông minh của một con người. Khi nhắc tới chỉ số thông minh IQ cao, người ta thường liên tưởng ngay tới sự thông minh của con người và ngược lại. Những người thường có chỉ số IQ cao là những người đã có những khả năng đặc biể trong thao tác, xử lý và phân tích thông tin ở một mức độ chuyên sâu cũng như tốc độ nhanh hơn nhiều so với những người khác có chỉ số IQ thông minh thấp hơn họ.
Để có thể đo chỉ số thông minh IQ, rất nhiều chuyên gia tâm lý và các nhà khoa học đã thiết kế ra những bài kiểm tra IQ nhằm tiến hành kiểm tra khả năng lập luận logic của 1 con người.
Khi đó, chỉ số thông minh IQ được sử dụng rộng rãi tại Pháp vào đầu thế kỷ 20 khi người ta mong muốn khắc phục một số khó khăn của trẻ em khi chúng bắt đầu đi học. Tiếp đó, những bài kiểm tra về chỉ số thông minh IQ được coi là hoàn chỉnh nhất là bài kiểm tra được phát triển từ chuyên gia Hans Aizenk. Những bài trắc nghiệm IQ này trở nên vô cùng phổ biến và được sử dụng rộng rãi tại châu Âu trong những năm 1950. Thậm chí mọi người còn tính điểm IQ của mình qua những bài kiểm tra đó ngay cả ở văn phòng và trong những buổi tiệc tùng.
Theo ông Hans Aizenk thì, nếu muốn xác định chỉ số IQ cần phải dựa vào 1 bài kiểm tra IQ với những câu hỏi liên quan tới suy luận logic, so sánh, số học, trí nhớ, kiến thức tổng quan, tính toán, xếp hình, và từ đó mới có thể so sánh tỉ lệ số điểm người này đạt được với những số điểm trung bình của những nhóm tuổi khác đã đạt được. Chỉ số IQ thông minh không phải là một con số đo được một cách tuyệt đối, những nhà khoa học ngày đó xem IQ như là một tỉ lệ giữa tuổi trí lực và tuổi đời của con người. Nhưng, sau đó các phương pháp kiểm tra trắc nghiệm IQ được cải tiến với 3 độ lệch chuẩn 15, 16, 24 nhằm mục đích khắc phục một số khuyết điểm của các phương pháp trước đó.
Việc xác định được chỉ số thông minh là nhằm giúp chẩn đoán cũng như giúp chữa trị những bệnh gây hạn chế đến khả năng tiếp thu kiến thức và để xác định trình độ học vấn cũng như giúp đỡ cho quá trình tuyển dụng của các doanh nghiệp. Tuy vậy, chúng ta cũng không nên dựa vào các con số về chỉ số thông minh IQ để đánh giá khả năng của từng người bởi với những bài kiểm tra IQ thường không có tính chất kiểm tra toàn diện mọi mặt của một con người.
Trong suốt cuộc đời của mỗi con người, thì chỉ số IQ thông minh thường rất ít biến đổi và chúng không phải lúc nào cũng có xu hướng tăng như mọi người vẫn nghĩ. Người ta đã nhận ra rằng chỉ số IQ thông minh sẽ ổn định nhất khi con người ở trong giai đoạn từ 16 tuổi trở và có thể tăng chậm cho đến khi họ được 30 tuổi và sau đó sẽ giảm dần theo thời gian. Vậy độ tuổi mà chỉ số thông minh IQ của con người đạt ngưỡng cao nhất là vào khoảng giai đoạn từ 20-30 tuổi.
Theo các nghiên cứu cho thấy, mỗi cá nhân đều có thể cố gắng hoàn chỉnh kiến thức nhằm gia tăng khả năng thông minh của mình. Một ví dụ điển hình là người Nhật họ thường cố gắng để rèn luyện để giúp trẻ con gia tăng trí óc bằng một số giáo trình đặc biệt kết hợp với bồi bổ dinh dưỡng đầy đủ. Tuy nhiên, hiệu quả chỉ rõ ràng khi con người đang còn trong giai đoạn phát triển (từ là dưới 16 tuổi) với 1 người trưởng thành, chỉ số IQ thông minh đã ổn định, thì việc luyện tập và rèn luyện não bộ có giúp cho chỉ số IQ được gia tăng nhưng sự gia tăng đó là không nhiều.
Hiệu quả thực tế từ chỉ số thông minh IQ được kiểm chứng dựa trên phương pháp kiểm soát được “mức độ liên quan giữa chỉ số IQ và thực tế cuộc sống của mỗi con người” với thước đo chuẩn bằng 1 cho thấy học vấn và chỉ số thông minh IQ có mức độ liên quan là bằng 0,5. Hiệu suất làm việc và chỉ số IQ thông là bằng 0,54. Do đó một người sở hữu chỉ số thông minh IQ cao thì chưa chắc đã học giỏi hoặc làm việc có hiệu suất cao hơn những người có chỉ số IQ thấp hơn họ.
Và chỉ số liên quan giữa tổng số năm học tập và chỉ số thông minh IQ là bằng 0.55;
Mức độ liên quan giữa thông minh IQ và điều kiện kinh tế xã hội của cha mẹ là bằng 0,33. Con số đó cho thấy môi trường xung quanh cũng như điều kiện sống có tác động mạnh tới việc tăng giảm chỉ số IQ thông minh của con người.
Mối liên quan giữa IQ thông minh của vợ và của chồng là bằng 0,4, theo đó, nếu hai bên có một mức độ hiểu biết tương đồng hay có những suy luận logic như nhau sẽ có sự ăn ý và hoà hợp với nhau.
Bên cạnh đó. Nhiều nhà khoa học cho rằng người có chỉ số IQ thông minh cao thường khoẻ khoắn và yêu đời hơn những người sở hữu chỉ số IQ thấp hơn họ. Điều đó được giải thích là họ có khả năng tránh né được nhiều rủi ro, biết bảo vệ sức khoẻ cũng như có đời sống kinh tế khá, đặc biệt là biết cách chống lại những cảm xúc tiêu cực trong cuộc sống như chán nản, buồn, trầm cảm, hoặc tuyệt vọng.
Đặc biệt thú vị mà các nhà khoa học nhận thấy ở đây là chiều cao của 2 bố mẹ và đứa trẻ liên quan tới IQ là bằng 0,47, trong khi đó, cha mẹ siêu thông minh thì thường có xu hướng sinh ra con cái ít thông minh hơn và các bậc cha mẹ thường lại có thể sinh ra những đứa con thông minh hơn. Đây được coi là định luật hướng về tính trung bình mà người ta vẫn thường nhắc đến trong di truyền học.
Một điều đặc biệt mà nhiều người không biết là những người có chỉ số IQ cao lại có trí nhớ không tốt trong khi người có trí thông minh tương đối thấp thì lại có trí nhớ rất lâu. Do đó, chúng ta mới có những nhân vật bác học đãng trí như hiện nay.
Thành công không chịu chi phối bởi trí thông minh mà nó liên quan đến phong cách cá nhân sử dụng trí thông minh của bản thân như nào để mang tới kết quả tốt. Đó cũng chính là kết luận của những nhà khoa học khi nói về sự ảnh hưởng của chỉ số IQ thông minh đến cuộc sống con người.
Một số thống kê tại Anh và Mỹ cho thấy rằng có tới 35% thành công trong cuộc đời là nhờ vào chỉ số thông minh IQ; 75% còn lại thì là nhờ một số chỉ số khác.
Một điều khá thú vị mà bạn không biết là từ kết quả trắc nghiệm kiểm tra IQ của các nhà khoa học, chỉ số IQ cao nhất toàn cầu không chỉ ở các nước phát triển ở châu Âu, châu Mỹ mà lại ở các nước châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore hay Việt Nam, Thái Lan... Tại những nước này, chỉ số IQ trung bình là bằng 105 đơn vị. Đứng vị trí thứ 2 là một số nước châu Âu, Mỹ, Canada, Australia hoặc New Zealand có chỉ số thông minh IQ trung bình là bằng 100, Nam Á, Bắc Phi và đa phần những nước châu Mỹ Latinh có chỉ số IQ trung bình là bằng 85. Còn châu Phi nói chung và những nước vùng biển Caribe có chỉ số thông minh IQ trung bình dưới 70.
Mong rằng với những thông tin trên sẽ giúp bạn có cái nhìn khách quan và khái quát cụ thể nhất về IQ là gì và những vấn đề liên quan tới chỉ số IQ.
Copyright © VietNam High IQ Society. All rights reserved